Trái với các chấn thương thể chất được quan tâm sơ cứu và chữa lành càng sớm càng tốt, chúng ta thường chỉ quan tâm chữa trị khi tâm lý có dấu hiệu khủng hoảng rõ rệt. Tuy nhiên, những chấn thương tâm lý ban đầu và mất mát tinh thần gây ra tác động đến tâm lý nghiêm trọng và lâu dài không kém gì những chấn thương sức khỏe thể chất. Việc sơ cứu tâm lý từ giai đoạn chớm khủng hoảng có thể giảm thiểu những hậu quả cũng như điều trị hiệu quả hơn rất nhiều.

Theo khái niệm của WHO ( Tổ chức Y tế Thế giới ), sơ cứu tâm lý là sự trợ giúp nhân đạo tới những người đang gặp khó khăn vất vả, đau đớn hoặc cần sự giúp sức về mặt tâm lý. Đây là sự tương hỗ thiết yếu để những người thuộc nhóm bị stress không rơi vào thực trạng rối loạn khủng hoảng. Sơ cứu tâm lý gồm có việc cung ứng chăm nom và giúp sức thực tiễn nhưng không xâm nhập vào đời tư của người cần được giúp sức ; nhìn nhận mối chăm sóc và nhu yếu của họ, giúp người gặp nạn cung ứng được nhu yếu cơ bản nhất ví dụ như thức ăn, nước uống, và thông tin ; lắng nghe nhưng không gây áp lực đè nén lên người bị nạn, an ủi và giúp sức họ bình tĩnh lại ; giúp người bị nạn liên kết thông tin, ship hàng và trợ giúp xã hội và tránh khỏi những tổn thương sau này .

Trong một bài báo đăng trên VnExpress, bác sĩ Phạm Minh Triết cho biết, không chỉ những biến cố trong đời sống cá nhân (như bị từ chối, thất bại, mất mát…) có thể gây chấn thương tâm lý, mà cả những biến cố không mong muốn ảnh hưởng rộng đến toàn xã hội (ví dụ thiên tai, dịch bệnh, chiến tranh…) cũng khiến nhu cầu được hỗ trợ tâm lý tăng cao đột biến. Bác sĩ cho biết ông đã có thêm nhiều vị khách mới trong mùa dịch. Họ bị rơi vào trạng thái lo lắng, mất phương hướng và cần sơ cứu tâm lý hơn bao giờ hết.

Nước Ta là một trong những vương quốc có số lượng thảm họa tự nhiên ( thiên tai ) và người bị tác động ảnh hưởng thiên tai cao trên quốc tế. Những thiệt hại về gia tài, sức khỏe thể chất và con người sẽ để lại những chấn thương tâm lý âm ỉ mà hậu quả của nó sẽ mất thời hạn khắc phục lâu hơn việc Phục hồi kinh tế tài chính, nhưng có vẻ như vẫn chưa được chăm sóc đúng đắn .

Tùy theo mỗi cá thể, mức độ tác động ảnh hưởng của biến cố được chia thành 3 nhóm : Nhóm vượt qua ảnh hưởng tác động, nhóm bị stress ( chiếm 60 % đến 90 % ) và nhóm bị rối loạn bởi khủng hoảng ( chiếm 5 % đến 49 % ). Nhóm bị stress dù hoàn toàn có thể thực thi được 1 số ít hoạt động giải trí thông thường nhưng cần được theo dõi, vì một số ít ca hoàn toàn có thể rơi vào nhóm rối loạn. Các biểu lộ rối loạn tinh thần hoàn toàn có thể gồm có trầm cảm, lo âu, rối loạn hành vi ( lạm dụng thuốc, lạm dụng rượu ), rối loạn stress sau sang chấn …

Trái với suy nghĩ sơ cứu tâm lý là hoạt động tư vấn cần sự chuyên nghiệp, thực tế chỉ ra rằng không chỉ những chuyên gia mà người bình thường như chúng ta cũng có thể tham gia hoạt động này. Mỗi người đều có thể hỗ trợ cộng đồng và bác sĩ thực hiện sơ cứu tâm lý sau thảm họa theo mô hình RAPID do trung tâm dự chuẩn sức khỏe cộng đồng của trường đại học Johns Hopkins sáng lập (The Johns Hopkins Center for Public Health Preparedness).

Mô hình RAPID tạo thành từ các yếu tố gồm:

R: Reflective listening – lắng nghe và thấu hiểu. Mục đích của việc này là tạo dựng mối quan hệ giữa hai bên và khiến người bị nạn cảm nhận được rằng họ đang được lắng nghe và thấu hiểu. Thấu hiểu thường tạo nên sự tin tưởng và tin tưởng dẫn đến người bị nạn lắng nghe và làm theo lời trợ giúp.

A: Assessment – đánh giá. Đánh giá nhu cầu thể chất và tâm lý cơ bản của người bị nạn, họ đã có nơi ẩn trú an toàn và đủ nhu yếu phẩm thường ngày chưa… Những thông tin này thường được thu thập từ câu chuyện của người bị nạn.

P: Priotization – ưu tiên. Sơ cứu tâm lý ưu tiên và tập trung sự chú ý vào những người cần sự giúp đỡ khẩn cấp, nhấn mạnh vào khả năng hoạt động cơ bản với câu hỏi “một người đang trong tình trạng nguy cấp có thể làm và cần làm những gì?”. Yếu tố này bao gồm hai phương thức hoạt động ưu tiên dựa trên bằng chứng và dựa trên mối rủi ro. Ưu tiên dựa trên bằng chứng là sử dụng khả năng quan sát, lắng nghe của bạn để đánh giá khả năng nhận thức hành vi của người bị nạn thông qua thể chất, cảm xúc, lời nói, hành vi, cách người đó giao tiếp… Còn ưu tiên dựa trên rủi ro là dựa vào những vết thương thể chất mà người bị nạn cần điều trị ngay lập tức (nếu có), các mối quan hệ xung quanh (liệu người đó có còn ai để nương tựa không) hoặc những trải nghiệm khủng hoảng tương tự mà người đó từng gặp phải trong quá khứ. Ưu tiên dựa trên rủi ro cũng cần được đánh giá kèm với ưu tiên bằng chứng.

I: Intervention – can thiệp. Can thiệp khẩn cấp bao gồm chăm sóc, giúp đỡ nhu cầu cơ bản nhất cho người bị nạn (như thức ăn, nơi ở…), làm dịu bớt các chấn thương, đau buồn tâm lý và nếu có thể, giúp người bị nạn khôi phục lại khả năng hoạt động cơ bản. Điều quan trọng nhất trong can thiệp chính là giúp người bị nạn đáp ứng nhu cầu cơ bản và sau đó mới làm dịu bớt các chấn thương, đau buồn tâm lý. Có hai kiểu can thiệp, dành cho người tâm lý không ổn định (hoảng loạn, sợ hãi, có ý định tự tử) và dành cho người tâm lý tạm ổn định, bồi dưỡng khả năng hoạt động bình thường lại.

D: Disposition – sắp xếp và theo dõi. Nếu người bị nạn có vẻ có thể tự chăm sóc bản thân và hoàn thành trách nhiệm của mình thì sự can thiệp có thể dừng ở đây.

Mong rằng bài viết trên đây đã góp thêm phần giúp bạn hiểu thêm về vai trò cũng như phương pháp “ sơ cứu niềm tin ” cho những người cần trợ giúp sau biến cố. Hãy chăm sóc nhiều hơn đến những chấn thương tâm lý cũng như vận dụng quy mô RAPID để góp thêm phần giảm thiểu những tai hại về mặt tâm lý do thiên tai, dịch bệnh gây ra nhé .

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *