Tuy nhiên, chất lượng của những cuộc tư vấn, cũng như chuẩn mực của một tư vấn viên đang là yếu tố đáng quan ngại so với nhiều người .

Thả lỏng quản trị đào tạo và giảng dạy

Một trong những nguyên do gây ra thực trạng kém chất lượng là do chương trình huấn luyện và đào tạo ngành tâm lý và việc thả lỏng trong quản trị. Khánh An liên tục tìm hiểu và khám phá về thực trạng lúc bấy giờ .


nhiều nguyên nhân dẫn đến việc một sinh viên ngành tâm lý ra trường không thể tự
thực hành tham vấn hay trị liệu tâm lý ngay được. Lý do đầu tiên, cũng là mâu
thuẫn cơ bản mà theo ý kiến của một số người trong ngành, là cần phải có một cuộc
“đại phẫu” thì mới mong thay đổi được tình hình, đó là chương trình đào tạo
ngành tâm lý học hiện nay tại Việt Nam cơ bản vẫn dựa trên học thuyết Mác-xít
cũ, vốn nặng về lý thuyết, không có tính thực hành, ứng dụng.

Chính
xác là lâu nay chương trình chính thức, nền tảng triết lý cho môn học tâm lý học
ở Việt Nam là chủ nghĩa Mác-Lênin cho nên giáo trình dựa trên cái đó.  

Ngô Minh Uy

Trong khi đó, những kỹ năng và kiến thức thiết yếu cho một tư vấn viên hoàn toàn có thể vận dụng trong thực tiễn lúc bấy giờ lại đa phần dựa trên tâm lý học hành vi của Mỹ hay phân tâm học, phe phái hiện sinh của Âu Châu .
Chuyên viên Ngô Minh Uy, hiện đang học chương trình Thạc sĩ tâm lý tại xứ sở của những nụ cười thân thiện, thừa nhận :

“Vấn đề này thật ra ở Việt Nam, có
thể với một số người họ không thẳng thắn đụng vào bởi vì nó liên quan đến vấn đề
chính trị. Một số người khác thì họ vẫn có thể nói thoải mái vì nó liên quan đến
vấn đề học thuật. Đúng, chính xác là lâu nay chương trình chính thức, nền tảng
triết lý cho môn học tâm lý học ở Việt Nam là chủ nghĩa Mác-Lênin cho nên giáo
trình dựa trên cái đó. Trước đây thì dịch từ các giáo trình của Liên Xô và có
thể xem như hầu hết các giáo trình chính thống của Việt Nam là theo giáo trình
hồi xưa của Liên Xô được dịch ra. Nó có khoảng từ năm 1978, mà những thông tin
được viết thành giáo trình có thể đã xảy ra trước đó 5, 7 năm hay là 10 năm.
Bao giờ cũng vậy, người ta phải dựa trên những nghiên cứu trước đó rồi mới đưa
ra giáo trình. Từ đó cho đến giờ cỡ 30 năm thì không cần phải quan điểm học thuật
theo triết nào, chỉ cần với khoảng thời gian đó mà không thay đổi thì đã là lạc
hậu rồi. Không thể nào chấp nhận được!


Tư vấn tâm lý trực tuyến tại trung tâm Ngàn Phố. Photo courtesy of tamlynganpho.com
Tư vấn tâm lý trực tuyến tại trung tâm Ngàn Phố. Photo courtesy of tamlynganpho.com

Ở Việt Nam, bắt đầu một số giáo
trình tâm lý học của Mỹ cũng được dịch nhưng cái đó chỉ đọc để tham khảo, ai muốn
thì tự đọc tham khảo thôi, chứ không chính thức đưa vào trường học. Hiện nay,
giáo trình của Việt Nam về tâm lý học mà dạy phần chung cho sinh viên thì hầu
như na ná nhau, lặp đi lặp lại những kiến thức cũ thôi, chứ không có gì mới.
Riêng một số môn học có vẻ như có tính ứng dụng thì các giáo viên được tự do
hơn, các giảng viên được tự do soạn, đa số họ lấy thông tin từ giáo trình của Mỹ,
hoặc một số người thì tham khảo sách tiếng Pháp. Nhưng về chính thức công nhận
như soạn thảo lại giáo trình tâm lý học cho Việt Nam thì gần như chưa có gì cả.”

Chính vì khối kỹ năng và kiến thức không có tính ứng dụng thực tiễn nên sinh viên ngành tâm lý ra trường thường rơi vào thực trạng hụt hẫng, thiếu tự tin với mớ kiến thức và kỹ năng chẳng dụng vào đâu được. Hậu quả là họ thường đụng nghề nào làm nghề nấy, nếu nghề có tương quan một chút ít đến tâm lý thì tốt, còn không, họ phải tự mày mò theo kiểu “ nghề dạy nghề ”. Riêng số sinh viên thực sự muốn theo nghề tâm lý, họ phải tự xoay sở bằng cách hoặc kiếm học bổng đi học thêm lên, hoặc tự bỏ tiền túi đi học thêm những lớp thời gian ngắn do một số ít chuyên viên tâm lý mở ra. Tuy nhiên, ngay cả khi đã tự tu dưỡng bằng những lớp thời gian ngắn trên, cũng không hề bảo vệ chất lượng của một người tham vấn thực sự. Chuyên viên Ngô Minh Uy cho biết thêm về tình hình tham vấn viên :

Thực tế về mặt pháp lý thì mình chưa có mã số nghề, mã số ngành thì có vì vậy điều đó nó dẫn đến việc đi học thêm nó nhờ vào vào chủ trương của những công ty .

TS Trần Thị Minh Đức

“Còn số mà thực sự có được đào tạo
về tham vấn chừng, Uy nghĩ, trên dưới 10 người, cỡ đó, có khi không tới. Còn lại
được đào tạo ngắn hạn, tức là họ được đào tạo vài tháng từ những chương trình
hay nguồn này, nguồn kia thì số đó từ vài chục đến một trăm, hoặc có thể hơn.
Nhưng mà chị biết là học về tham vấn đâu phải là huấn luyện vài ba tháng là ổn
đâu, nó đòi hỏi phải có chương trình nền tảng về lý thuyết phải vững, rồi sau
đó là kỹ năng thực hành có giám sát. Cho nên nó có chuyện vui là khi hỏi anh chị
làm liệu pháp nào là chính khi làm việc với thân chủ thì nhiều người nói là tôi
làm theo liệu pháp tổng hợp.”

Cần một cuộc cách mạng

Một trong thực tiễn dễ thấy khác, đó là rất nhiều nhân viên tâm lý lúc bấy giờ tại Nước Ta tuy hành nghề hơn cả chục năm nhưng vẫn sử dụng mớ kỹ năng và kiến thức xưa cũ từ ghế nhà trường mà không hề update những kỹ năng và kiến thức mới. Điều đó dẫn đến ngay cả việc bắt nhịp với luồng tư tưởng của thân chủ, đặc biệt quan trọng là với giới thanh thiếu niên, thì bản thân người tham vấn cũng gặp nhiều khó khăn vất vả .
Nguyên nhân dẫn đến thực trạng trên hoàn toàn có thể kể ra hàng loạt, mở màn từ việc chưa có bất kể một quy chuẩn, lao lý nào người thực hành thực tế tham vấn, trị liệu tâm lý. PGS. TS. Trần Thị Minh Đức, Chủ nhiệm bộ môn Tâm lý học xã hội, Khoa Tâm Lý, trường Đại học KHXH&NV – Đại học Quốc gia Thành Phố Hà Nội, cho biết :

“Thực ra về ngành tâm lý, riêng ở
lãnh vực trợ giúp, hoạt động thực tiễn thì hiện nay thực tế là mình chưa có mã
số nghề. Mã số nghề của mình trước đây về tâm lý học thì vì những người học ở
Liên Xô, ở các nước XHCN về thì phát triển ở trong lĩnh vực giáo dục rất nhiều,
cho nên mã số nghề cho người làm tâm lý học mà dạy học hay làm nghiên cứu thì
nó có những quy định rất rõ ràng. Tuy nhiên, tâm lý học liên quan đến thực
hành, tham vấn, trị liệu như mình gọi là tâm lý học lâm sàng, tham vấn, làm việc
ở các bệnh viên, trường học hoặc ở các trung tâm tư vấn thì thực ra chỉ mới
phát triển những năm gần đây thôi.

Nói tóm lại, chương trình tu nghiệp trong nước yên cầu phải có cái mới lạ, mê hoặc thì mới mê hoặc được người tham gia .
tiến sỹ Võ Văn Nam

Cho nên trên thực tế về mặt pháp lý
thì mình chưa có mã số nghề, mã số ngành thì có cho nên điều đó nó dẫn đến việc
đi học thêm nó phụ thuộc vào chính sách của các công ty hoặc chính sách của các
trường học, nơi mình làm. Ví dụ như người ta thường tổ chức những cái training
hoặc chính người học phải tự đi học thêm để làm việc được và cái này mới chỉ là
chính sách của các công ty thuê mướn người làm hơn là bắt buộc, tại vì trên thực
tế là chưa có hiệp hội như Hiệp hội Tham vấn ở Hoa Kỳ chẳng hạn, thì nó có quy
định rõ ràng về cái học mỗi năm phải đi qua bao nhiêu, phải tham gia hội thảo
như thế nào, bằng cấp như thế nào sau mấy năm như thế nào… Thực ra ở Việt Nam
thì mình chưa có mã số nghề, ngành thì có, về đạo tạo, cho người đi đào tạo  thì có nhưng cho người làm thực hành thì bây
giờ ở xã hội mới đang đặt ra.”

Tuy
chưa có các quy định bắt buộc phải bồi dưỡng, nâng cao nghiệp vụ đối với các
chuyên viên tâm lý, nhưng các hiệp hội, các trường thỉnh thoảng mở ra các buổi
hội thảo, mời các chuyên gia tâm lý nước ngoài đến để trình bày về một chủ đề
nào đó. Tuy nhiên, theo đánh giá của nhiều tham dự viên, các buổi hội thảo
chuyên đề không mang tính hệ thống, lại thiếu tính sáng tạo, mới mẻ nên không
thu hút được người tham dự. TS. Võ Văn Nam, nguyên Trưởng khoa Tâm lý Đại học
Sư Phạm TPHCM nhận xét:

“Theo tôi đánh giá thì nói chung do
tinh thần cầu tiến, muốn cải tiến công việc của mình, nhất là khi tiếp xúc với
các chuyên gia từ Âu Mỹ sang, thì cán bộ trẻ rất là hăm hở, chẳng những nghe
báo cáo mà họ còn có thể khai thác qua trao đổi trực tiếp với các báo cáo viên
từ nước ngoài, cho nên những cái thu hoạch về thì họ có thể báo cáo lại cho những
người không có điều kiện dự. Nói chung là họ hăm hở với các mới. Có điều lúc đầu
là như vậy, nhưng về sau nếu chương trình cứ lặp lại theo kiểu đơn điêu thì một
số nơi người ta cũng phản ánh là không có gì mới. Nói tóm lại, chương trình tu
nghiệp trong nước đòi hỏi phải có cái mới mẻ, hấp dẫn thì mới hấp dẫn được người
tham dự.”

Nói tóm lại, để ngành tâm lý lâm sàng Nước Ta tăng trưởng đúng hướng, cần phải có một cuộc cách mạng từ cơ cấu tổ chức chương trình đến chính sách quản trị với những pháp luật về đạo đức, chuẩn mực nghề nghiệp, tiêu chuẩn hành nghề v.v … Có như vậy, người tham vấn tâm lý mới thực sự trở thành một “ bác sĩ tâm hồn ” cho thân chủ .

Theo dòng thời sự :

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *